Chủ nhiệm đề tài: Ngô Thị Thanh Hòa
Thư ký đề tài: Phạm Thế Văn
Cộng sự: Hoàng Thị Xuyến, Trần Văn Tiến, Trần Thị Nhung
Tóm tắt
Nghiên cứu hành vi gây hấn ở 60 người bệnh tâm thần phân liệt thể Paranoid điều trị nội trú tại Bệnh viện Tâm thần Hà Nội. Sử dụng phương pháp mô tả chùm ca lâm sàng. Chúng tôi sử dụng tiêu chuẩn chẩn đoán tâm thần phân liệt thể Paranoid của ICD.10, thang đánh giá mức độ hành vi gây hấn AOS (Overt Aggression Scale). Phương pháp thu thập thông tin nghiên cứu thống nhất, xử lý, phân số liệu bằng phần mềm thống kê, kết quả cho thấy: 95% người bệnh có hành vi gây hấn, tỷ lệ giảm khi điều trị : 18,3%. Số lần gây hấn cả đợt điều trị 3,02 ± 1,923 lần. Tỷ lệ loại hành vi gây hấn giai đoạn T0 – T1 là: gây hấn bằng lời nói 95%, gây hấn với người khác 8,3%, gây hấn với đồ vật 21,7%, không có người bệnh nào có hành vi gây hấn với bàn thân. Mức độ hành vi gây hấn giai đoạn T0 – T1 : AOS 4,25 ± 3,501 điểm, mức độ hành vi gây hấn giảm rõ rệt ở giai đoạn T1 – T2: AOS 3,09 ± 3,646 điểm.
Đặt vấn đề
Tâm thần phân liệt là một rối loạn tâm thần nghiêm trọng, khá phổ biến ở các nước trên thế giới với tỷ lệ khoảng 0,3-0,5% dân số, biểu hiện lâm sàng đa dạng, gây ra do sự tương tác của các nhân tố di truyền, môi trường và các yếu tố trong quá trình phát triển, có khuynh hướng tiến triển mạn tính. 1,2
Tâm thần phân liệt thể Paranoid là thể bệnh hay gặp nhất, các triệu chứng dương tính như hoang tưởng và ảo giác chiếm ưu thế trong bệnh cảnh lâm sàng. Các rối loạn về cảm xúc và hành vi chủ yếu do hoang tưởng và ảo giác chi phối. Người bệnh thường bồn chồn, nghi ngờ, lo âu, giận dữ, thái độ xa lánh hoặc đôi khi có biểu hiện thù địch, gây hấn.3,4 Hành vi gây hấn ở bệnh tâm thần phân liệt chiếm tỷ lệ cao, có đặc điểm phát sinh, phát triển và liên quan một số yếu tố, khác với hành vi gây hấn ở những bệnh lý khác. Nắm rõ đặc điểm hành vi gây hấn ở người bệnh tâm thần phân liệt, nhất là tâm thần phân liệt thể Paranoid giúp theo dõi, quản lý, điều trị và chăm sóc tốt hơn ngăn ngừa những hậu quả do hành vi gây hấn, bạo lực gây ra.5,6
Ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu hành vi gây hấn ở người bệnh tâm thần phân liệt, nhưng chưa có nghiên cứu sâu về hành vi gây hấn ở nhóm người bệnh tâm thần thể Paranoid. Vì vậy, để góp phần làm rõ đặc điểm của các rối loạn hành vi gây hấn ở người bệnh tâm thần phân liệt thể Paranoid, chúng tôi tiến hành thực hiện nghiên cứu đề tài: “Mô tả đặc điểm lâm sàng hành vi gây hấn ở người bệnh tâm thần phân liệt thể Paranoid”, với mục tiêu:
* Mô tả đặc điểm lâm sàng hành vi gây hấn ở người bệnh tâm thần phân liệt thể Paranoid.
1. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu.
1.1. Đối tượng nghiên cứu.
– Gồm 60 người bệnh (24 nữ, 36 nam) Tâm thần phân liệt thể Paranoid điều trị nội trú tại Bệnh viện Tâm thần Hà Nội từ tháng 04/2024 đến tháng 09/2024.
1.2. Phương pháp nghiên cứu.
+ Thiết kế nghiên cứu: Mô tả chùm ca bệnh.
+ Tiêu chuẩn chọn mẫu: Người bệnh tâm thần phân liệt thể Paranoid chẩn đoán theo tiêu chuẩn ICD.10, điều trị nội trú tại Bệnh viện Tâm thần Hà Nội, trong thời gian nghiên cứu.
+ Tiêu chuẩn loại trừ: Người bệnh có bệnh lý thực tổn tại não, người bệnh có bệnh, rối loạn tâm thần đồng diễn, người bệnh có bệnh cơ thể nặng. NB không có đủ điều kiện, thời gian thu thập thông tin nghiên cứu. NB, thân nhân NB không đồng ý tham gia nghiên cứu.
+ Phương pháp thu thập thông tin:
– Công cụ nghiên cứu: Tiêu chuẩn chẩn đoán TTPL thể Paranoid theo tiêu chuẩn chẩn đoán ICD.10 bản nghiên cứu.7 Thang AOS đánh giá hành vi gây hấn. Bệnh án nghiên cứu.
– Kỹ thuật thu thập thông tin: phỏng vấn, khám bệnh, thu thập hành vi gây hấn trên lâm sàng, đánh giá mức độ hành vi gây hấn bằng thang AOS.
+ Các biến số, chỉ số nghiên cứu: Thông tin chung (tuổi, giới, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân, địa dư), tuổi khởi phát, số lần vào viện, thời gian mắc bệnh, loại HT-AG. Tỷ lệ hành vi gây hấn, loại hành vi gây hấn: gây hấn bằng lời nói, gây hấn với đồ vật, gây hấn với bản thân, gây hấn với người khác, triệu chứng gây hấn của mỗi loại hành vi gây hấn theo thời gian điều trị, số lần gây hấn. Mối liên quan mức độ hành vi gây hấn với một số hành vi gây hấn.
+ Xử lý số liệu: số liệu được trình bày bằng số, tỷ lệ %, trung bình trung vị; sử dụng thuật toán χ2, t-student. Sử dụng phần mềm SPSS 20.0.
2. Kết quả nghiên cứu.
2.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu.
2.1.1. Đặc điểm về tuổi, giới, học vấn, nghề nghiệp, hôn nhân, địa dư.
Tuổi trung bình của nhóm người bệnh là 39,18 ± 9,649 tuổi, trẻ nhất 17 tuổi, cao nhất 58 tuổi trong đó có 24 nữ, 36 nam. Nhóm 31 – 40 tuổi cao nhất 33,4%, nhóm 41 – 50 tuổi 30,0%, nhóm 21-30 tuổi 20,0%, từ 20 tuổi trở xuống 3,3%, nhóm trên 50 tuổi 13,3%.
Học vấn nhóm người bệnh không cao: THPT: 70,0%, THCS 15,0%, tiểu học 8,3%, từ đại học trở lên chỉ chiếm 6,7%. Về nghề nghiệp: không nghề 93,4%, văn phòng 3,3%, khác 3,3%. Người bệnh chưa kết hôn 60,0%, tỷ lệ ly thân, ly hôn cao 8,3% và 13,3%. Về địa dư: người bệnh ở thành thị 78,3%, nông thôn 21,7%.
2.1.2. Đặc điểm bệnh tâm thần phân liệt
Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu 24,62 ± 7,402 tuổi, trẻ nhất 12 tuổi, cao nhất 44 tuổi. Nhóm 21-30 tuổi có tỷ lệ 45,0%, nhóm từ 20 tuổi trở xuống 35%, nhóm 31-40 tuổi 16,7%. Nhóm trên 40 tuổi chỉ 3,3%.
Số lần vào viện cao nhất ≥ 5 lần 91,7%, từ 1-2 lần 5,0%, từ 3-4 lần 3,3%.
Thời gian mắc bệnh cao nhất trên 10 năm 70,0%, từ 6-10 năm 20,0%, ≤ 5 năm 10,0%
2.2 Đặc điểm lâm sàng hành vi gây hấn.
2.2.1. Các triệu chứng rối loạn tâm thần.
Tỷ lệ ảo giác chiếm 41,7% trong đó cao nhất là ảo thanh đàm thoại 20,0%, nhiều ảo giác 11,7%, ảo thanh bình phẩm – xui khiến 5,0%.
Tỷ lệ hoang tưởng chiếm 93,3% cao nhất là hoang tưởng bị hại 61,7%, nhiều hoang tưởng 25,0%, các loại hoang tưởng khác 1,7%.
Tỷ lệ một số triệu chứng rối loạn tâm thần khác: cảm xúc không ổn định 63,3%, tư duy tự kỷ và hành vi dị kỳ 60,0%, tư duy không liên quan 51,7% và cảm xúc thiếu hòa hợp là 36,7%.
2.2.2 Đặc điểm lâm sàng hành vi gây hấn.
+ Tỷ lệ hành vi gây hấn
Tỷ lệ hành vi gây hấn khi vào viện, giai đoạn T0-T1 cao: gây hấn 95,0%, trong đó gây hấn bằng lời nói có tỷ lệ cao nhất 95,0%, gây hấn với đồ vật 21,7%, gây hấn với người khác 8,3%. Không có hành vi gây hấn với bản thân. Tỷ lệ hành vi gây hấn giai đoạn T1-T2 có tỷ lệ thấp hơn: gây hấn 18,3%, trong đó gây hấn bằng lời nói 18,3%, gây hấn với đồ vật 1,7%, gây hấn với người khác 3,3%.
Tỷ lệ loại hành vi gây hấn bằng lời nói cao ở giai đoạn vào viện, giai đoạn T0-T1: chửi rủa ác ý, dùng từ thô tục khi giận dữ, đe dọa vừa có tỷ lệ cao nhất 43,3%; gây ồn ào, la hét giận dữ và xúc phạm nhẹ nhàng đều có tỷ lệ 23,3%; có mối đe dọa bạo lực rõ ràng đối với người khác 6,7%. Tỷ lệ loại hành vi gây hấn bằng lời nói giảm ở giai đoạn T1-T2: xúc phạm nhẹ nhàng 6,7%; gây ồn ảo, la hét giận dữ và chửi rủa ác ý, dùng từ thô tục khi giận dữ, đe dọa vừa đều có tỷ lệ 3,3%; có mối đe dọa bạo lực rõ ràng đối với người khác có tỷ lệ 1,7%. Tỷ lệ gây ồn ào, la hét giận dữ giai đoạn nhập viện, giai đoạn T0-T1 ở nữ 37,5% cao hơn ở nam 13,9%.
Tỷ lệ loại hành vi gây hấn với đồ vật giai đoạn vào viện, giai đoạn T0-T1: phá vỡ đồ đạc, đập vỡ cửa sổ có tỷ lệ cao nhất 18,3%, vứt đồ đạc không gây hỏng chỉ chiếm 3,3%. Giai đoạn T1-T2 tỷ lệ rất thấp.
Loại tỷ lệ hành vi gây hấn với người khác thấp, giai đoạn vào viện, giai đoạn T0-T1: có cử chỉ đe dọa, huých vào mọi người, túm quần áo 5,0%; đánh, đá, xô đẩy, kéo tóc (không gây thương tích) 3,3%. Giai đoạn T1-T2 chỉ còn cử chỉ đe dọa, huých vào mọi người, túm quần áo tỷ lệ 3,3%.
Số lần gây hấn trung bình cả đợt điều trị của 57 người bệnh là 3,02±1,923 lần, giai đoạn T0-T1 57 người bệnh là 2,09±0,831 lần, giai đoạn T1-T2 của 11 người bệnh là 2,09±0,831 lần. Gây hấn ít nhất 1 lần, nhiều nhất 9 lần/1 người bệnh.
+ Mối liên quan mức độ hành vi gây hấn với một số hành vi gây hấn.
Mức điểm thang AOS đánh giá mức độ hành vi gây hấn ở mức trung bình thấp, điểm của 57 người bệnh cả đợt, giai đoạn T0-T1 là 4,25±3,501 điểm; của 11 người bệnh giai đoạn T1-T2 là 3,09±3,646 điểm.
Mức độ hành vi gây hấn theo điểm thang AOS giai đoạn T1-T2 của nhóm người bệnh từ 30 tuổi trở xuống (7,00±5,568 điểm) cao hơn nhóm người bệnh trên 30 tuổi (2,13±1,126 điểm).
Mức độ hành vi gây hấn theo điểm thang AOS của nhóm người bệnh khởi phát bệnh tâm thần tử 30 tuổi trở xuống: cả đợt, bốn tuần đầu điều trị là 5,74±4,408 điểm (19 người bệnh); giai đoạn 4 đến 6 tuần 6,50±4,509 điểm (4 người bệnh) so với nhóm khởi phát bệnh tâm thần phân liệt sau 30 tuổi, cả đợt, giai đoạn 4 tuần đầu điều trị là 3,50±2,719 điểm (38 người bệnh) và giai đoạn 4 đến 6 tuần điều trị là 1,71±0,756 điểm (7 người bệnh).
Mức độ hành vi gây hấn theo điểm thang AOS không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê theo nhóm thời gian bị tâm thần phân liệt trên 10 năm và từ 10 năm trở xuống (p > 0,05).
+ Tiến triển hành vi gây hấn theo thời gian.
Tỷ lệ người bệnh có hành vi gây hấn chung, hành vi gây hấn bằng lời nói, gây hấn với đồ vật thuyên giảm rõ rệt theo thời gian điều trị, còn tỷ lệ thấp giai đoạn sau 6 tuần, lần lượt là 18,3%; 18,3%; 3,3%. Tỷ lệ hành vi gây hấn với người khác thuyên giảm ở giai đoạn 6 tuần.
Mức độ hành vi gây hấn theo điểm thang AOS thuyên giảm rõ rệt theo thời gian điều trị, mức độ gây hấn còn ở mức thấp giai đoạn sau 6 tuần điều trị (3,45±3,503 điểm).
3. Bàn luận.
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu.
3.1.1. Đặc điểm về tuổi, giới, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân, địa dư.
Tuổi trung bình nhóm người bệnh nghiên cứu là 39,18±9,649 tuổi (nữ 37,88 ± 9,369, nam 40,06 ± 9,847). Trẻ nhất 17 tuổi, cao nhất 58 tuổi trong đó 24 nữ và 36 nam. Tỷ lệ nhóm 31- 40 tuổi cao nhất 33,4%, 41-50 tuổi 30,0%, 21-30 tuổi 20,0%, tỷ lệ nhóm từ 20 tuổi trở xuống và nhóm trên 50 tuổi có tỷ lệ thấp. Như vậy, nhóm tuổi của các người bệnh đa số ở tuổi trung niên, đây là nhóm tuổi lao động, qua đó phản ánh hậu quả của tâm thần phân liệt trên chức năng lao động, chức năng xã hội. Nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với đa số các tác giả, như: Trần Cao Cường, Nguyễn Bá Hưng.8,9
Học vấn nhóm người bệnh nghiên cứu không cao. Tỷ lệ THPT chiếm chủ yếu 70,0%; THCS 15,0%; tiểu học 8,3%; từ đại học trở lên 6,7%. Tỷ lệ người bệnh không nghề chiếm chủ yếu 93,4%, nghề văn phòng, nghề khác đều có tỷ lệ 3,3%. Tỷ lệ người bệnh chưa kết hôn cao 60,0%. Tỷ lệ người bệnh ly hôn, ly thân cao tỷ lệ lần lượt: 13,3%; 8,3%. Học vấn thấp, tỷ lệ không nghề cao, tỷ lệ kết hôn thấp, ly hôn, ly thân cao có thể do bệnh tâm thần phân liệt cản trở việc học, lao động của người bệnh và cũng vì lý do bệnh tật nên người bệnh khó duy trì mối quan hệ hôn nhân hay hướng đến hôn nhân hoặc tâm lý người xung quanh né tránh, e ngại. Qua kết quả này phản ánh hậu quả của tâm thần lên chức năng học tập, lao động, gia đình, xã hội. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với đa số các tác giả, như: Trần Cao Cường, Nguyễn Bá Hưng, Cao Tiến Đức.8,9,10
Tỷ lệ người bệnh ở thành thị là chủ yếu 78,3%. Kết quả này phù hợp với phân bố dân số của thành phố Hà Nội, chủ yếu dân số sống ở khu vực thành thị.
3.1.2. Đặc điểm bệnh tâm thần phân liệt của nhóm đối tượng nghiên cứu.
Tuổi khởi phát bệnh tâm thần phân liệt của nhóm nghiên cứu trẻ 24,62 ± 7,402 tuổi trong đó: nữ 24,63 ± 7,149 tuổi; nam 24,61 ± 7,665 tuổi. Trẻ nhất 12 tuổi, cao nhất 44 tuổi. Tỷ lệ nhóm người bệnh khởi phát từ 20 tuổi khá cao 35,0%, tỷ lệ nhóm 21-30 tuổi cao nhất 45,0%, tỷ lệ 31- 40 tuổi 16,7%, chỉ có 3,3% người bệnh khởi phát sau 40 tuổi. Qua kết quả cho thấy bệnh tâm thần phân liệt là bệnh ảnh hưởng đến chức năng tâm thần của người bệnh nặng nề, vì khởi phát chủ yếu ở tuổi thanh niên. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp đa số các tác giả, như: Graham SA, Adamowicz DH, Jeste DV, Lee EE; Serper MR; Azis M, Ristanovic I, Pelletier-Baldelli A; Wehring HJ, Carpenter WT.1,3,4,11
Tỷ lệ người bệnh nhập viện từ 5 lần trở lên chiếm tỷ lệ chủ yếu 91,7%, tỷ lệ nhập viện 1-2 lần 5,0%, 3-4 lần 3,3%. Như vậy, nhóm người bệnh trong nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu gồm các người bệnh tâm thần nặng, có nhiều đợt bệnh nặng. Kết quả này phù hợp với một số tác giả, như: Trần Cao Cường, Nguyễn Bá Hưng, Trần Văn Cường.8,9,12
Thời gian mắc bệnh tâm thần phân liệt trung bình của nhóm người bệnh nghiên cứu là 14,98 ±7,525 năm trong đó: nữ 13,75 ± 6,661 năm; nam 15,81 ± 8,035 năm. Thời gian mắc bệnh ngắn nhất 3 năm, dài nhất 32 năm. Tỷ lệ người bệnh mắc bệnh trên 10 năm chiếm chủ yếu 70,0%, 6-10 năm 20,0%, từ 5 năm trở xuống 10%. Qua kết quả cho thấy nhóm người bệnh gồm những người mắc bệnh tâm thần phân liệt thời gian dài, gián tiếp phản ánh nhóm người bệnh này gồm những người bệnh tâm thần nặng. Kết quả này phù hợp với một số tác giả trong nước.8,9,12
3.2 Đặc điểm lâm sàng hành vi gây hấn.
3.2.1 Tỷ lệ một số triệu chứng rối loạn tâm thần
Tỷ lệ ảo giác khá cao 41,7%, trong đó ảo thanh đàm thoại cao nhất 20,0%, nhiều ảo giác 11,7%, ảo thanh đàm thoại, ảo thanh xui khiến đều có tỷ lệ 5,0%. Tỷ lệ ảo giác ở nữ 58,3% cao hơn nam 30,6%, tỷ suất 3,182, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,033. Quần thể người bệnh nghiên cứu của chúng tôi là người bệnh tâm thần phân liệt, vì vậy tỷ lệ có ảo giác cao là phù hợp chẩn đoán. Tỷ lệ ảo giác ở nữ cao hơn, không phù hợp với lý thuyết các triệu chứng ảo giác, hoang tưởng không có sự khác biệt giữa nữ và nam, có thể do mẫu nghiên cứu của chúng tôi còn nhỏ.13,14
Hoang tưởng chiếm tỷ lệ cao 93,3%, trong đó tỷ lệ hoang tưởng bị hại cao nhất 61,7%, nhiều hoang tưởng 25,0%, hoang tưởng bị chi phối, kiểm tra, hoang tưởng liên hệ, hoang tưởng tự cao đều chiếm 1,7%. Tỷ lệ hoang tưởng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nữ và nam (p = 0,292). Quần thể người bệnh nghiên cứu của chúng tôi là người bệnh tâm thần phân liệt, vì vậy tỷ lệ có hoang tưởng cao là phù hợp với chẩn đoán.13,14
Tỷ lệ tư duy tự kỷ 60,0%, tư duy không liên quan 51,7%, hành vi dị kỳ 60,0%, cảm xúc thiếu hòa hợp 36,7%, tư duy tự động 1,7%. Cảm xúc không ổn định 63,3%, cảm xúc lo âu 1,7%. Tỷ lệ các triệu chứng phân liệt cao là phù hợp, vì bệnh tâm thần thần phân liệt là bệnh rối loạn tư duy và có sự chia cắt trong hoạt động tâm thần. Kết quả này phù hợp với đa số tác giả: Graham SA, Adamowicz DH, Jeste DV, Lee EE; Azis M, Ristanovic I, Pelletier-Baldelli A; Long J, Hull R.1,4,14
3.2.2 Đặc điểm lâm sàng hành vi gây hấn.
+ Tỷ lệ hành vi gây hấn
Tỷ lệ hành vi gây hấn khi vào viện, giai đoạn 4 tuần điều trị cao: gây hấn 95,0%, trong đó gây hấn bằng lời nói có tỷ lệ cao nhất 95,0%, gây hấn với đồ vật 21,7%, gây hấn với người khác 8,3%. Không có hành vi gây hấn với bản thân. Tỷ lệ hành vi gây hấn giai đoạn từ 4 đến 6 tuần điều trị có tỷ lệ thấp hơn: gây hấn 18,3%, trong đó gây hấn bằng lời nói 18,3%, gây hấn với đồ vật 1,7%, gây hấn với người khác 3,3%. Tỷ lệ hành vi gây hấn không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nữ và nam (p = 0,333). Như vậy, hành vi gây hấn bằng lời nói và gây hấn với đồ vật là chủ yếu. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với một số tác giả: Darrell-Berry H, Berry K, Bucci S; Soyka M; Alpert JE, Spillmann MK.5,6,15 Tuy nhiên, tỷ lệ hành vi gây hấn của chúng tôi cao hơn nhiều so với một số tác giả khác nghiên cứu về tâm thần phân liệt, như: Trần Cao Cường, Nguyễn Bá Hưng,8,9 có thể do các tác giả khác đánh giá hành vi gây hấn chủ yếu là các hành vi gây hấn nặng có tác động vật lý, chứ không tính đến hành vi gây hấn bằng lời nói.
Tỷ lệ loại hành vi gây hấn bằng lời nói cao ở giai đoạn vào viện, giai đoạn 4 tuần đầu điều trị: chửi rủa ác ý, dùng từ thô tục khi giận dữ, đe dọa vừa có tỷ lệ cao nhất 43,3%; gây ồn ào, la hét giận dữ và xúc phạm nhẹ nhàng đều có tỷ lệ 23,3%; có mối đe dọa bạo lực rõ ràng đối với người khác 6,7%. Tỷ lệ loại hành vi gây hấn bằng lời nói giảm ở giai đoạn 4 đến 6 tuần điều trị: xúc phạm nhẹ nhàng 6,7%; gây ồn ảo, la hét giận dữ và chửi rủa ác ý, dùng từ thô tục khi giận dữ, đe dọa vừa đều có tỷ lệ 5,0%; có mối đe dọa bạo lực rõ ràng đối với người khác có tỷ lệ 1,7%. Tỷ lệ gây ồn ào, la hét giận dữ giai đoạn nhập viện, giai đoạn 4 tuần đầu điều trị ở nữ 37,5% cao hơn ở nam 13,9%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p = 0,034. Qua kết quả cho thấy hành vi gây hấn bằng lời nói có tỷ lệ cao nhất có thể đây là khởi đầu cho những hành vi gây hấn nặng hơn và tỷ lệ hành vi gây ồn ào, la hét ở nữ cao hơn có thể do nữ giới về tâm lý chung thường phản ứng bằng lời nói nhiều hơn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với một số tác giả: Serper MR; Alpert JE, Spillmann MK; Hastings JE, Hamberger LK 3,15,16
Tỷ lệ loại hành vi gây hấn với đồ vật giai đoạn vào viện, giai đoạn 4 tuần đầu điều trị: phá vỡ đồ đạc, đập vỡ cửa sổ có tỷ lệ cao nhất 18,3%, vứt đồ đạc không gây hỏng chỉ chiếm 3,3%. Giai đoạn 4 đến 6 tuần điều trị tỷ lệ rất thấp. Tỷ lệ loại hành vi gây hấn với đồ vật không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nữ và nam (p > 0,05). Kết quả này có thể phản ứng chính của người bệnh do rối loạn tâm thần có thể gây bức xúc khá cao vì vậy đồ đạc bị phá hỏng chiếm tỷ lệ cao, mặt khác trong môi trường bệnh viện được quản lý chặt nên không có hành vi gây cháy. Tỷ lệ không có sự khác biệt giữa nữ và nam có thể hành vi gây hấn với đồ vật chủ yếu do triệu chứng rối loạn tâm thần gây ra nên không có sự khác biệt và cũng có thể do mẫu nghiên cứu của chúng tôi còn nhỏ nên không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với một số tác giả: Serper MR; Darrell-Berry H, Berry K, Bucci S; Hastings JE, Hamberger LK; Navarro-Mantas L, Velásquez MJ, Lemus Sd, Megías JL.3,5,16,17 Tuy nhiên, tỷ lệ hành vi gây hấn với đồ vật của chúng tôi cao hơn một số tác giả nghiên cứu trong nước, có thể do phương pháp đánh giá và mẫu nghiên cứu khác nhau.8,9,12
Tỷ lệ hành vi gây hấn với người khác thấp, giai đoạn vào viện, giai đoạn 4 tuần đầu điều trị: có cử chỉ đe dọa, huých vào mọi người, túm quần áo 5,0%, đánh, đá, xô đẩy, kéo tóc (không gây thương tích) 3,3%. Giai đoạn 4 đến 6 tuần điều trị chỉ còn cử chỉ đe dọa, huých vào mọi người, túm quần áo tỷ lệ 3,3%. Kết quả này có thể do mức hành vi gây hấn là mức cao nhất nên tỷ lệ thấp, mặt khác trong môi trường điều trị nội trú, người bệnh đã được điều trị thuốc và quản lý chặt chẽ, do vậy tỷ lệ hành vi gây hấn với người khác không cao và không có triệu chứng gây hậu quả nặng. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cơ bản phù hợp với một số tác giả: Soyka M; Wehring HJ, Carpenter WT; Alpert JE, Spillmann MK; Tomlinson MF, Brown M, Hoaken PN.6,11,15,18
Số lần gây hấn trung bình cả đợt điều trị của 57 người bệnh là 3,02±1,923 lần, giai đoạn 4 tuần đầu điều trị của 57 người bệnh là 2,61±1,360 lần, giai đoạn 4 đến 6 tuần điều trị của 11 người bệnh là 2,09±0,831 lần. Gây hấn ít nhất 1 lần, nhiều nhất 9 lần/1 người bệnh. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê số lần gây hấn giữa nam và nữ (p > 0,05). Như vậy, số lần gây hấn trong một đợt điều trị lặp lại nhiều lần, điều này cần lưu ý trong công tác điều trị, theo dõi, quản lý để đề phòng các hậu quả của hành vi gây hấn gây ra đặc biệt phải lưu ý.
+ Mối liên quan mức độ hành vi gây hấn với một số hành vi gây hấn
Mức điểm thang AOS đánh giá mức độ hành vi gây hấn ở mức trung bình thấp, điểm của 57 người bệnh cả đợt, giai đoạn vào viện và giai đoạn 4 tuần đầu điều trị là 4,25±3,501 điểm, của 11 người bệnh giai đoạn 4 đến 6 tuần điều trị là 3,09±3,646 điểm. Mức độ hành vi gây hấn theo điểm thang AOS không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nam và nữ (p > 0,05). Kết quả này có thể do các người bệnh trong môi trường nội trú đã được điều trị thuốc và được quản lý chặt chẽ. Mặt khác, không có sự khác biệt mức độ hành vi gây hấn giữa nữ và nam có thể hành vi gây hấn chủ yếu liên quan đến triệu chứng rối loạn tâm thần, ít liên quan giới, cũng có thể do mẫu nghiên cứu của chúng tôi còn nhỏ nên không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi mức độ gây hấn thấp hơn: Serper MR; Tomlinson MF, Brown M, Hoaken PN; Yudofsky SC, Silver JM, Jackson W, Endicott J, Williams D.3,18,19
Mức độ hành vi gây hấn theo điểm thang AOS giai đoạn từ 4 đến 6 tuần điều trị của nhóm người bệnh từ 30 tuổi trở xuống (7,00±5,568 điểm) cao hơn nhóm người bệnh trên 30 tuổi (2,13±1,126 điểm), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p = 0,030. Qua kết quả cho thấy nhóm từ 30 tuổi trở xuống mức độ hành vi gây hấn cao hơn, kéo dài hơn nhóm trên 30 tuổi có thể do tâm lý và hoạt động hành vi lứa tuổi trẻ khác lứa tuổi cao hơn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp một số tác giả: Soyka M; Alpert JE, Spillmann MK; Campbell JC, Lewandowski LA; Gortner ET, Gollan JK, Jacobson NS.6,15,20,21
Mức độ hành vi gây hấn theo điểm thang AOS của nhóm người bệnh khởi phát bệnh tâm thần từ 30 tuổi trở xuống: cả đợt, giai đoạn vào viện, 4 tuần đầu điều trị là 5,74±4,408 điểm (19 người bệnh), giai đoạn 4 đến 6 tuần 6,50±4,509 điểm (4 người bệnh) so với nhóm khởi phát bệnh tâm thần phân liệt sau 30 tuổi, cả đợt, vào viện, giai đoạn 4 tuần đầu điều trị là 3,50±2,719 điểm (38 người bệnh) và giai đoạn 4 đến 6 tuần điều trị là 1,71±0,756 điểm (7 người bệnh). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,022, p = 0,019). Kết quả này có thể do người bệnh khởi phát bệnh trẻ có thể tình trạng rối loạn tâm thần nặng hơn so với nhóm khởi phát bệnh tâm thần phân liệt muộn hơn, dẫn đến mức độ hành vi gây hấn ở nhóm khởi phát bệnh tâm thần phân liệt ở tuổi trẻ nặng hơn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp đa số các tác giả, như: Graham SA, Adamowicz DH, Jeste DV, Lee EE; Darrell-Berry H, Berry K, Bucci S; Wehring HJ, Carpenter WT; Tomlinson MF, Brown M, Hoaken PN.1,5,11,18
Mức độ hành vi gây hấn theo điểm thang AOS không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê theo nhóm thời gian bị tâm thần phân liệt trên 10 năm và từ 10 năm trở xuống (p > 0,05). Kết quả này có thể hành vi gây hấn phụ thuộc chính vào các triệu chứng rối loạn tâm thần, loạn thần chứ ít phụ thuộc vào thời gian bị bệnh, hoặc cũng có thể do mẫu nghiên cứu của chúng tôi nhỏ nên chưa có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
+ Tiến triển hành vi gây hấn theo thời gian
Tỷ lệ người bệnh có hành vi gây hấn chung, hành vi gây hấn bằng lời nói, gây hấn với đồ vật thuyên giảm rõ rệt theo thời gian điều trị, còn tỷ lệ thấp giai đoạn sau 6 tuần, lần lượt là 18,3%, 18,3%, 3,3%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p < 0,0001, 0,001. Tỷ lệ hành vi gây hấn với người khác thuyên giảm ở giai đoạn 6 tuần, nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,4290). Qua kết quả cho chúng ta thấy tỷ lệ hành vi gây hấn giảm rõ rệt theo thời gian điều trị có thể khi rối loạn tâm thần, loạn thần thuyên giảm thì hành vi gây hấn thuyên giảm, nói cách khác hành vi gây hấn có thể là hậu quả của rối loạn cảm xúc, tư duy. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp đa số các tác giả, như: Darrell-Berry H, Berry K, Bucci S; Long J, Hull R; Hastings JE, Hamberger LK.5,14,16
Mức độ hành vi gây hấn theo điểm thang AOS thuyên giảm rõ rệt theo thời gian điều trị, mức độ gây hấn còn ở mức thấp giai đoạn sau 6 tuần điều trị (3,45±3,503 điểm). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p < 0,0001. Kết quả này có thể do mức độ hành vi gây hấn phụ thuộc triệu chứng rối loạn tâm thần, loạn thần, triệu chứng rối loạn tâm thần, loạn thần giảm mức độ hành vi gây hấn giảm. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp đa số các tác giả, như: Darrell-Berry H, Berry K, Bucci S; Long J, Hull R; Hastings JE, Hamberger LK; Yudofsky SC, Silver JM, Jackson W, Endicott J, Williams D.5,14,16,19
KẾT LUẬN
Nghiên cứu 60 người bệnh tâm thần phân liệt thể Paranoid (24 nữ, 36 nam) điều trị nội trú, chúng tôi rút ra kết luận:
Giai đoạn vào viện, 4 tuần đầu điều trị, tỷ lệ hành vi gây hấn của người bệnh tâm thần phân liệt thể Paranoid cao 95,0%, trong đó hành vi gây hấn bằng lời nói cao nhất 95,0%, gây hấn với đồ vật 21,7%, gây hấn với người khác tỷ lệ thấp 8,3%, không thấy hành vi gây hấn với bản thân. Giai đoạn 4 đến 6 tuần điều trị, tỷ lệ hành vi gây hấn giảm 18,3%, gây hấn bằng lời nói 18,3%, gây hấn với đồ vật 1,7%, gây hấn với người khác 3,3%. Số lần gây hấn cả đợt điều 3,02±1,923 lần (57 người bệnh). Mức độ hành vi gây hấn bằng thang AOS giai đoạn 4 tuần đầu điều trị 4,25±3,501 điểm, 4-6 tuần 3,09±3,646 điểm. Tỷ lệ và mức độ hành vi gây hấn thuyên giảm nhanh theo thời gian điều trị (p < 0,0001).
Tỷ lệ triệu chứng gây ồn ào, la hét giai đoạn vào viện, 4 tuần đầu điều trị ở nữ cao hơn nam (p = 0,034). Mức độ hành vi gây hấn giai đoạn 4-6 tuần điều trị nhóm từ 30 tuổi trở cao hơn nhóm trên 30 tuổi (p =0,03). Mức độ hành vi gây hấn ở nhóm người bệnh khởi phát bệnh tâm thần phân liệt từ 30 tuổi trở xuống cao hơn nhóm khởi phát sau 30 tuổi (p = 0,022, p = 0,019).
Mức độ hành vi gây hấn không có sự khác biệt theo giới, theo thời gian mắc bệnh tâm thần phân liệt (p > 0,05).
Tài liệu tham khảo
1. Graham SA, Adamowicz DH, Jeste DV, Lee EE. Schizophrenia Spectrum and Other Psychotic Disorders. The American Psychiatric Association Publishing Textbook of Geriatric Psychiatry. 2022:311.
2. Ng B, Martinez DS, Koh S, Tohen M, Gangwisch MJE. Descriptive Epidemiology. The American Psychiatric Association Publishing Textbook of Schizophrenia. 2020:1.
3. Serper MR. Aggression in schizophrenia. Schizophrenia bulletin. 2011;37(5):897-898.
4. Azis M, Ristanovic I, Pelletier-Baldelli A, et al. Schizophrenia Spectrum and Other Psychotic Disorders. Psychopathology. Routledge; 2019:247-280.
5. Darrell-Berry H, Berry K, Bucci S. The relationship between paranoia and aggression in psychosis: A systematic review. Schizophrenia research. 2016;172(1-3):169-176.
6. Soyka M. Neurobiology of aggression and violence in schizophrenia. Schizophrenia bulletin. 2011;37(5):913-920.
7. Tổ chức y tế thế giới. Tâm thần phân liệt, các rối loạn hoang tưởng và rối loạn loại phân liệt. Phân loại các rối loạn tâm thần và hành vi Tiêu chuẩn chẩn đoán dành cho nghiên cứu – Geneva, 1993 Biên dịch: Trần Viết Nghị và cs. NXB Công ty In Giao thông; 2005:84-96.
8. Trần Cao Cường. Nghiên cứu hậu quả của bệnh nhân tâm thần phân liệt đối với gia đình và xã hội. Luận văn thạc sĩ y học. Trường Đại học Y Hà Nội; 1999.
9. Nguyễn Bá Hưng. Nghiên cứu đặc điểm các hành vi nguy hiểm ở bệnh nhân tâm thần phân liệt thể Paranoid. Luận văn thạc si y học. Học viện Quân y; 2001.
10. Cao Tiến Đức. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tự sát của bệnh nhân tâm thần. Nội san Bệnh viện Tâm thần Trung ương I. 1997;1-1997:28-30.
11. Wehring HJ, Carpenter WT. Violence and schizophrenia. Oxford University Press; 2011. p. 877-878.
12. Trần Văn Cường. Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và nhân tố thúc đẩy hành vi phạm tội ở bệnh nhân trong giám định pháp y tâm thần. Nội san Bệnh viện Tâm thần Trung ương I. 2003;6-2003:1-7.
13. Mäki P, Veijola J, Jones PB, et al. Predictors of schizophrenia—a review. British medical bulletin. 2005;73(1):1-15.
14. Long J, Hull R. Conceptualizing a less paranoid schizophrenia. Philosophy, Ethics, and Humanities in Medicine. 2023;18(1):14.
15. Alpert JE, Spillmann MK. Psychotherapeutic approaches to aggressive and violent patients. Psychiatric Clinics of North America. 1997;20(2):453-472.
16. Hastings JE, Hamberger LK. Sociodemographic predictors of violence. Psychiatric Clinics of North America. 1997;20(2):323-335.
17. Navarro-Mantas L, Velásquez MJ, Lemus Sd, Megías JL. Prevalence and sociodemographic predictors of intimate partner violence against women in El Salvador. Journal of interpersonal violence. 2021;36(7-8):NP3547-NP3573.
18. Tomlinson MF, Brown M, Hoaken PN. Recreational drug use and human aggressive behavior: A comprehensive review since 2003. Aggression and violent behavior. 2016;27:9-29.
19. Yudofsky SC, Silver JM, Jackson W, Endicott J, Williams D. The Overt Aggression Scale for the objective rating of verbal and physical aggression. The American journal of psychiatry. 1986;143(1):35-39. doi:10.1176/ajp.143.1.35
20. Campbell JC, Lewandowski LA. Mental and physical health effects of intimate partner violence on women and children. Psychiatric clinics of north america. 1997;20(2):353-374. 21. Gortner ET, Gollan JK, Jacobson NS. Psychological aspects of perpetrators of domestic violence and their relationships with the victims. Psychiatric Clinics of North America. 1997;20(2):337-352