Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Văn Tuấn1,2
Thư ký đề tài: Nguyễn Văn Trọng1
Cộng sự: Phạm Hồng Thái1, Nguyễn Thị Hải1, Vũ Hương Giang1
1Bệnh viện Tâm thần Hà Nội
2Bộ môn Tâm thần, Trường Đại học Y Hà Nội
Tóm tắt
Nghiên cứu hành vi gây hấn ở 88 người bệnh rối loạn tâm thần liên quan đến sử dụng đa chất điều trị nội trú tại Bệnh viện Tâm thần Hà Nội. Sử dụng phương pháp mô tả chùm ca lâm sàng. Chúng tôi sử dụng tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn tâm thần liên quan sử dụng đa chất của ICD.10, thang đánh giá mức độ hành vi gây AOS (Overt Aggression Scale). Phương pháp thu thập thông tin nghiên cứu thống nhất, xử lý, phân số liệu bằng phần mềm thống kê, kết quả cho thấy: 100% người bệnh có hành vi gây hấn, tuần đầu điều trị hành vi gây hấn có tỷ lệ cao nhất 100%, tỷ lệ giảm ở tuần điều trị thứ hai và thứ ba: 89,8% và 41,0% (p < 0,0001). Số lần gây hấn cả đợt điều trị 5,67 ± 2,169 lần. Tỷ lệ loại hành vi gây hấn tuần đầu điều trị là: gây hấn bằng lời nói 100%, gây hấn với người khác 93,2%, gây hấn với đồ vật 70,5%, chỉ 4,5% người bệnh có hành vi gây hấn với bàn thân. Mức độ hành vi gây hấn cả đợt cao: AOS12,75 ± 2,432 điểm, tuần đầu điều trị mức độ gây hấn cao: AOS 12,61 ± 2,684 điểm, mức độ hành vi gây hấn giảm rõ rệt tuần điều trị thứ ba: AOS 1,00 ± 1,874 điểm (p < 0,0001). Mức độ hành vi gây hấn liên quan tuyến tính đồng biến với chẩn đoán, số chất sử dụng kết hợp, nhóm có sử dụng Ketamin, nhóm có hoang tưởng (ꞵ: 0,576 > 0,488 > 0,424 > 0,419), liên quan nghịch biến với nhóm tuổi bắt đầu sử dụng đa chất (ꞵ: – 0,407).
Đặt vấn đề
Trên thế giới, người sử dụng nhiều loại ma túy và chất gây nghiện (đa chất) ngày càng phổ biến. Theo Stephenson M và cộng sự có 24,5%, Görgülü T có 43,5% người sử dụng đa chất trong những người sử dụng chất.1,2 Tanibuchi Y, Matsumoto và cộng sự nghiên cứu 2018, trong 399 người sử dụng ma túy, 53,3% thường xuyên sử dụng kết hợp nhiều chất3.
Ở Việt Nam, chưa có điều tra dịch tễ lớn về vấn đề này. Tuy nhiên, một số năm gần đây, số lượng người bệnh rối loạn tâm thần (RLTT) liên quan đến sử dụng đa chất vào điều trị ở cơ sở Tâm thần có xu hướng tăng lên. Ở Bệnh viện Tâm thần Hà Nội (BVTTHN), tỷ lệ người bệnh rối loạn tâm thần liên quan sử dụng đa chất điều trị nội trú xu hướng tăng lên ( 2014: 5,715, 2018: 8,13%)4.
RLTT và hành vi liên quan sử dụng đa chất là hậu quả của việc sử dụng đa chất, biểu hiện lâm sàng đa dạng, phóng phú. Hành vi gây hấn là một trong những rối loạn hành vi thường gặp ở những đối tượng sử dụng đa chất2,5,6.
Hành vi gây hấn ở đối tượng sử dụng đa chất có đặc điểm phát sinh, biểu hiện và mối liên quan khác với hành vi gây hấn ở những bệnh lý tâm thần khác. Nắm rõ đặc điểm hành vi gây hấn liên quan sử dụng đa chất giúp chẩn đoán sớm, điều trị có hiệu quả và ngăn ngừa các hành vi nguy hiểm có thể xảy ra5,7.
Ở Việt Nam, chưa có nghiên cứu sâu về hành vi gây hấn liên quan đến sử dụng đa chất ở người bệnh điều trị nội trú, vì vậy chúng tôi chọn “Đặc điểm lâm sàng hành vi gây hấn ở người bệnh rối loạn tâm thần liên quan sử dụng đa chất điều trị nội trú” làm đề tài nghiên cứu, với mục tiêu:
Mô tả đặc điểm lâm sàng hành vi gây hấn ở người bệnh rối loạn tâm thần liên quan sử dụng đa chất tác động tâm thần điều trị nội trú tại Bệnh viện Tâm thần Hà Nội năm 2024.
1. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu.
1.1. Đối tượng nghiên cứu.
Gồm 88 người bệnh nam RLTT liên quan sử dụng đa chất tác động tâm thần điều trị tại khoa H, BVTTHN từ 02/2024 đến 09/2024.
1.2. Phương pháp nghiên cứu.
+ Thiết kế nghiên cứu: Mô tả chùm ca bệnh.
+ Tiêu chuẩn chọn mẫu: Người bệnh RLTT liên quan sử dụng đa chất tác động tâm thần điều trị tại khoa H, BVTTHN trong thời gian nghiên cứu, được lựa chọn vào nhóm chung. Người bệnh có hành vi gây hấn ở người bệnh RLTT liên quan sử dụng đa chất tác động tâm thần trong suốt quá trình điều trị, lựa vào nhóm mô tả lâm sàng.
+ Tiêu chuẩn loại trừ: Người bệnh có tiền sử RLTT khác trước sử dụng đa chất hoặc có RLTT đồng diễn, có bệnh thực tổn não, có bệnh nội nặng hoặc bệnh nội khoa có thể gây RLTT. Người bệnh, thân nhân người bệnh không đồng ý tham gia nghiên cứu. Người bệnh không đủ điều kiện, thời gian thu thập thông tin nghiên cứu.
+ Phương pháp thu thập thông tin:
– Công cụ nghiên cứu: Tiêu chuẩn chẩn đoán RLTT liên quan sử dụng đa chất theo tiêu chuẩn chẩn đoán ICD.10 bản nghiên cứu.27 Thang AOS đánh giá giá hành vi gây hấn. Bệnh án nghiên cứu.
– Kỹ thuật thu thập thông tin: phỏng vấn, khám bệnh, thu thập hành vi gây hấn trên lâm sàng, đánh giá mức độ hành vi gây hấn bằng thang AOS.
+ Các biến số, chỉ số nghiên cứu: Nhân khẩu học, thời gian sử dụng đa chất, loại chất sử dụng kết hợp, số chất sử dụng kết hợp, mã chẩn đoán, triệu chứng kèm theo. Tỷ lệ hành vi gây hấn, loại hành vi gây hấn: gây hấn bằng lời nói, gây hấn với đồ vật, gây hấn với bản thân, gây hấn với người khác, triệu chứng gây hấn của mỗi loại hành vi gây hấn theo thời gian điều trị. Mối liên quan của hành vi gây hấn với một số nhân tố.
+ Xử lý số liệu: số liệu được trình bày bằng số, tỷ lệ %, trung bình trung vị; sử dụng thuật toán χ2, t-student, hồi quy tuyến tính đa biến. Sử dụng phần mềm SPSS 20.0.
2. Kết quả nghiên cứu.
2.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu.
2.1.1. Đặc điểm về tuổi, học vấn, nghề nghiệp, hôn nhân, địa dư.
Tuổi trung bình của nhóm người bệnh là 36,15 ± 9,429 tuổi, trẻ nhất 19 tuổi, cao nhất 61 tuổi. Nhóm 21 – 30 tuổi cao nhất 33,0%, kế tiếp 41 – 50 tuổi 31,8%, nhóm từ 20 tuổi trở xuống 1,1%, nhóm trên 50 tuổi 6,8%.
Học vấn nhóm người bệnh không cao: THPT: 51,2%, THCS 43,2%, tiều học 1,1%, từ đại học trờ lên chỉ chiếm 4,5%. Đa số nghề lao động không ổn định hoặc lao động giản đơn: không nghề 79,6%, nghề tự do 15,9%. Người bệnh chưa kết hôn 48,9%, tỷ lệ ly thân, ly hôn cao 4,5% và 12,5%. người bệnh ở thành thị 81,8%, nông thôn 18,2%.
2.1.2. Đặc điểm sử dụng đa chất.
Tuổi trung bình bắt đầu sử dụng đa chất trẻ 25,78 ± 7,148 tuổi, trẻ nhất 12 tuổi, cao nhất 41 tuổi. Nhóm 21-30 tuổi có tỷ lệ 51,1%, nhóm từ 20 tuổi trở xuống 23,9%, nhóm 31-40 tuổi 21,6%. Nhóm trên 40 tuổi chỉ 3,4%.
Thời gian sử dụng đa chất dài 10,07 ± 6,441 năm. Sử dụng đa chất trên 10 năm 37,5%, sử dụng 6-10 năm 33,0%, sử dụng từ 5 năm trở xuống 29,5%.
Tỷ lệ chất sử dụng: là ATS 88,4%, cần sa 60,2%, chất dạng thuốc phiện (CDTP) 44,3%, rượu 29,5%, Ketamin 21,6%, bóng cười 12,5%.
Số chất trung bình chất kết hợp 2,52 ± 0,660 chất, thấp nhất 2 chất, cao nhất 5 chất. Kết hợp hai chất tỷ lệ 55,7%, ba chất 37,5%, bốn chất 5,7%, 5 chất chỉ 1,1%.
Tỷ lệ sử dụng kết hợp hai chất: ATS và cần sa 23,9%, CDTP và ATS 14,8%, CDTP và rượu 5,7%, kết hợp hai chất khác chiếm tỷ lệ thấp.
Tỷ lệ kết hợp ba chất: CDTP, ATS, rượu 10,2%, CDTP, ATS, cần sa 8,0%, ATS, cần sa, Ketamin và ATS, cần sa, Bóng cười 5,7%, Kết hợp ba loại chất khác chiếm tỷ lệ thấp.
2.2 Đặc điểm lâm sàng hành vi gây hấn.
2.2.1 Mã chẩn đoán, triệu chứng rối loạn tâm thần.
Tỷ lệ chẩn đoán RLTT và hành vi khác do sử dụng đa chất 53,4%, loạn thần do sử dụng đa chất 42,1%, thể hoang tưởng chiếm ưu thế có 25,0%, nghiện đa chất thấp 4,5%.
Tỷ lệ hoang tưởng cao 28,4%, hoang tưởng bị hại 23,9%, ảo giác 15,9%, ảo thanh 14,8%, ảo thanh giả 8,0%; các triệu chứng ảo giác, hoang tưởng khác chiếm tỷ lệ thấp.
Lúc vào viện, tỷ lệ rối loạn cảm xúc, hành vi cao: cảm xúc dễ cáu giận 92,0%, cảm xúc không ổn định 33,0%, hằn học 28,4%, lo âu 22,7%, hưng cảm 12,5%, hành vi gây hấn 97,7%, kích động 39,8%, tăng hoạt động 35,2%. Rối loạn giấc ngủ có tỷ lệ cao nhất 95,5%, rối loạn chú ý 75%, ăn kém ngon miệng 68,2%, giảm trí nhớ gần 22,7%.
2.2.2 Đặc điểm lâm sàng hành vi gây hấn.
+ Loại gây hấn, triệu chứng gây hấn.
Tỷ lệ hành vi gây hấn tuần đầu điều trị chiếm 100,0%, tuần điều trị 1-2 89,8%, tuần điều trị 2-3 41,0%. Tỷ lệ hành vi gây hấn bằng lời nói: tuần đầu điều trị 100,0%, tuần điều trị 1-2 89,8%, tuần điều trị 2-3 41,0%. Tỷ lệ hành vi gây hấn với người khác: tuần đầu điều trị 93,2%, tuần điều trị 1-2 60,2%, tuần điều trị 2-3 không. Tỷ lệ hành vi gây hấn với đồ vật: tuần đầu điều trị 70,5%, tuần điều trị 1-2 34,1%, tuần điều trị 2-3 4,8%. Hành vi gây hấn với bản thân chỉ gặp ở tuần đầu điều trị và có tỷ lệ rất thấp 4,5%.
Số lần gây hấn: cả đợt điều trị 5,67 ± 2,169 lần, tuần điều trị 3,40 ± 1,326 lần, tuần điều trị 1-2 2,03 ± 1,011 lần, tuần điều trị 2-3 0,57 ± 0,719 lần (p < 0,0001).
Tỷ lệ triệu chứng gây ồn ào, la hét: tuần đầu điều trị 73,9%, tuân 1-2 56,8%, tuần 2-3 22,9%, triệu chứng gây hấn bẳng lời nói khác tỷ lệ thấp hơn. Tỷ lệ triệu chứng gây lộn xộn, đóng sầm cửa: tuần đầu điều trị 37,5%, tuần 1-2 20,5%, tuần 2-3 2,4%, triệu chứng gây hấn với đồ vật khác có tỷ lệ thấp hơn. Tỷ lệ triệu chứng hành vi đe dọa, túm tóc: tuần đầu điều trị 76,1%, tuần 1-2 54,5%, tuần 2-3 0%; tỷ lệ các triệu chứng thuyên giảm nhanh theo thời gian điều trị, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p < 0,05, 0,01, 0,0001.
Điểm thang AOS đánh giá mức độ hành vi gây hấn cả đợt điều trị ở mức cao 12,75 ± 2,432 điểm, mức độ hành vi gây hấn giảm rõ rệt theo thời gian điều trị: tuần đầu điều trị điểm thang AOS ở mức độ cao 12,61 ± 2,684 điểm; tuần điều trị 1-2 thang AOS ở mức độ vừa 8,68 ± 5,725 điểm; tuần điều trị 2-3 thang AOS ở mức độ thấp 1,00 ± 1,874 điểm.
Tỷ lệ hành vi gây hấn bằng lời nói, gây hấn với đồ vật, gây hấn với người khác thuyên giảm rõ rệt theo thời gian, tỷ lệ thấp sau 3 tuần điều trị: 41,0%, 4,8%, 0% (p < 0,0001).
Tỷ lệ các loại hành vi gây hấn ở các giai đoạn điều trị không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê theo nhóm tuổi, với p > 0,05.
Tuần đầu điều trị, tỷ lệ hành vi gây hấn với bản thân ở nhóm bắt đầu sử dụng đa chất trên 30 tuổi 13,6% cao hơn nhớm bắt đầu sử dụng đa chất từ 30 tuổi trở xuống 1,5%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p = 0,018.
Tuần điều trị, tỷ lệ hành vi gây hấn bằng lời nói nhóm chấn đoán loạn thần 97,3% cao hơn nhóm chẩn đoán khác 84,3%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p = 0,047.
Tỷ lệ các loại hành vi gây hấn không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm thời gian sử dụng đa chất trên 5 năm và từ 5 năm trở xuống, với p > 0,05.
Tỷ lệ các loại hành vi gây hấn không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm sử dụng kết hợp từ 3 chất trở lên và nhóm sử dụng kết hợp 2 chất, với p > 0,05.
Mức độ hành vi gây hấn cả đợt điều trị, có sự liên quan tuyến tính đồng biến có ý nghĩa thống kê từ mạnh đến yếu với các biến độc lập, theo thứ tự hệ số hồi quy chuẩn ꞵ: nhóm chẩn đoán 0,576 > số chất sử dụng kết hợp 0,488 > nhóm có sử dụng Ketamin 0,424 > nhóm có hoang tưởng 0,419. Hành vi gây hấn cao ở nhóm chẩn đoán F19.5, F19.8, ở nhóm sử dụng kết hợp nhiều chất, ở nhóm có sử dụng Ketamin, ở nhóm có hoang tưởng.
Mức độ hành vi gây hấn tuần đầu điều trị có sự liên quan tuyến tính đồng biến có ý nghĩa thống kê từ mạnh đến yếu với các biến độc lập, theo thứ tự hệ số hồi quy chuẩn ꞵ: nhóm theo chẩn đoán 0,84 > hoang tưởng 0,583 > ảo giác 0,517 > số chất sử dụng kết hợp 0,488 > nhóm tuổi 0,432 > nhóm có sử dụng Ketamin 0,371. Hành vi gây hấn cao ở nhóm chẩn đoán F19.5, F19.8, ở nhóm có hoang tưởng, ảo giác, ở nhóm số chất sử dụng kết hợp nhiều, ở nhóm tuổi cao, ở nhóm có sử dụng Ketamin.
Mức độ hành vi gây hấn tuần điều trị 1-2 có sự liên quan tuyến tính đồng biến có ý nghĩa thống kê từ mạnh đến yếu với các biến độc lập, theo thứ tự hệ số hồi quy chuẩn ꞵ: số chất sử dụng kết hợp 0,593 > nhóm có sử dụng cần sa 0,532 > tuổi bắt đầu sử dụng đa chất 0,457 > nhóm sử dụng có Ketamin 0,360. Hành vi gây hấn cao ở nhóm số chất sử dụng kết hợp nhiều, khi tuổi bắt đầu sử dụng đa chất cao, có sử dụng cần sa, sử dụng Ketamin.
Mức độ hành vi gây hấn tuần điều trị 2-3 có sự liên quan tuyến tính đồng biến có ý nghĩa thống kê với tuổi, hệ số hồi quy chuẩn ꞵ = 0,408. Hành vi gây hấn cao khi tuổi cao. Mức độ hành vi gây hấn tuần điều trị 2-3 có sự liên quan tuyến tính nghịch biến có ý nghĩa thống kê với số chất sử dụng kết hợp, hệ số hồi quy chuẩn ꞵ = – 0,374.
3. Bàn luận.
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu.
3.1.1. Đặc điểm về tuổi, học vấn, nghề nghiệp, hôn nhân, địa dư.
Tuổi trung bình cao hơn nhóm một số người bệnh sử dụng ma túy mới, nhưng thấp hơn nhóm người bệnh chỉ sử dụng rượu. Có sự chênh lệch lớn về tuổi, có thể do có sự phân chia thành hai nhóm lớn sử dụng đa chất: một là các người bệnh sử dụng chất gây nghiện truyền thống như CDTP, rượu sử dụng kết hợp chất gây nghiện mới, những người bệnh này có tuổi cao, ngược lại có nhóm người bệnh trẻ sử dụng các loại chất gây nghiện mới như ATS, cần sa, bóng cưới… có xu hướng sử dụng đa chất tùy tình huống về nhóm bạn chơi, môi trường và điều kiện kinh tế, những người bệnh này có tuổi trẻ hơn rất nhiều. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tuổi sử dụng đa chất cao hơn nghiên cứu người bệnh sử dụng ATS của Nguyễn Đăng Xuất, Nguyễn Văn Tuấn, Phạm Thành Luân, Nguyễn Văn Tuấn; Nguyễn Khắc Dũng và đối tượng sử dụng chất sử dụng đa chất ở Thổ Nhĩ Kỳ của Görgülü T.2,4,25,26 Nhưng tuổi trẻ hơn nhiều so với người bệnh sử dụng đa chất trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Tuấn, Vũ Ngọc Úy, Vũ Hương Giang năm 2019.4
Học vấn thấp dẫn đến nhận thức hạn chế, có thể là yếu tố thuận lợi cho sử dụng chất gây nghện nói chung và đã chất nói riêng, ngược lại sử dụng chất gây nghiện cũng có thể cản trở việc học tập dẫn đến người bệnh không học lên cao được. Kết quả nghiên cứu phần nào phản ánh hậu quả của việc sử dụng đa chất và yếu tố thuận lợi cho việc sử dụng đa chất. Như vậy, có thể do học vấn thấp nên nghề nghiệp chủ yếu không nghề, nghề lao động giản đơn, nghề nghiệp có thể là hậu quả của việc sử dụng đa chất, hoặc ngược lại chính nghề nghiệp tạo môi trường thuận lợi cho việc sử dụng đa chất. Có thể do sử dụng đa chất dẫn đến người bệnh không quan tâm đến hôn nhân, cũng có thê do sử dụng đa chất dẫn đến mặc cảm và bị người khác xa lánh và mặt khác có thể do sử dụng đa chất dẫn đến mâu thuẫn gia đình do người bệnh giảm lao động, suy giảm kinh tế gia đình, ít quan tâm chăm sóc gia đình gây xung đột gia đình, vì vậy dẫn đến ly hôn, ly thân cao. Kết quả này phần nào phản ánh hậu quả của sử dụng đa chất. Kết quả này có thể do Hà Nội dân số sống ở thành thị là chủ yếu, số ít sống ở nông thôn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của đa số các tác giả: Nguyễn Văn Tuấn, Vũ Ngọc Úy, Vũ Hương Giang; Nguyễn Đăng Xuất, Nguyễn Văn Tuấn, Phạm Thành Luân, Nguyễn Văn Tuấn.4,26
3.1.2. Đặc điểm sử dụng đa chất.
Nghiên cứu cho thấy các đối tượng sử dụng chất nói chung, sử dụng đa chất nói riêng xu hướng ngày càng trẻ, có thể do sẵn có các chất ma túy ở môi trường xã hội, có thể do tiếp xúc với quan điểm văn hóa, lối sống xấu, dẫn đến nhận thức lệch lạc, tạo thuận lợi cho việc sử dụng chất và đa chất sớm ở một số nhóm đối tượng. Đây là một trong những mặt trái của hội nhập thế giới. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với một số tác giả: Görgülü T; Mustafa A.1,2,7
Kết quả này có thể một số người bệnh đã sử dụng chất gây nghiện truyền thống cũ chuyển sang sử dụng chất gây nghiện mới để phù hợp trào lưu và có thể làm đối tượng khoái cảm hơn, mặt khác phản ánh trong môi trường xã hội sẵn có nhiều chất gây nghiện, các đối tượng sử dụng từ tuổi trẻ và do vậy thời gian sử dụng đa chất khá dài, có sự rất khác biệt về thời gian sử dụng đa chất trong nhóm người bệnh nghiên cứu. Qua kết quả cũng cho thấy nhóm người bệnh nghiên cứu của chúng tôi gồm những người bệnh nặng. Kết quả nghên cứu của chúng tôi phù hợp một số tác giả: Mustafa A; Tomlinson MF, Brown M, Hoaken PN.7,20
Kết quả này có thể do các chất ATS, cần sa… là những chất ma túy mới gây kích thích, phù hợp hợp với cuộc sống hội nhóm và tâm lý đối tượng thỏa mãn cái tôi khi sử dụng các loại chất này. Mặt khác, có thể trong thị trường bất hợp pháp sẵn có các chất ATS, cần sa… dẫn đến tỷ lệ sử dụng các chất này cao. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ sử dụng các chất khác một số tác giả nước ngoài, như: Fosse R, Olsen BM, Bjørkly S; Mustafa A; Steele JL và Peralta RL,5,7,19 có thể do đặc điểm chất ở thị trường bất hợp pháp, môi trường văn hóa, xã hội… khác Việt Nam.
Kết quả cho thấy mức độ sử dụng kết hợp chất gây nghiện của nhóm người bệnh không quá nhiều, có thể do thị trường bất hợp pháp tại Việt Nam cũng đã nhiều nhiều loại, tuy nhiên còn rất ít so với các vùng lãnh thổ khác trên thế giới, mặt khác phương thức “Chơi bời” của nhóm đối tượng còn đơn giản, sự kết hợp chủ yếu để thỏa mãn sự khoái cảm và theo điều kiện kinh tế. Kết quả của chúng tôi khác so với một số tác giả nước ngoài, như: Görgülü T, Mustafa A, Yudko E, Blanchard DC, Henrie JA, Blanchard RJ.5,7,24
Kết quả này có thể do ATS, cần sa là những loại ma túy kích thích hoặc kích thích gây ảo giác, gây khoái cảm nhiều và xu hướng sử dụng theo nhóm, phù hợp “Mode” của các đối tượng sử dụng chất, vì vậy nhóm sử dụng kết hợp ATS và cần sa, CDTP và ATS có tỷ lê cao. Mặt khác, có một tỷ lệ đáng kể có kết hợp giữa CDTP và rượu, có thể chủ yếu ở nhóm đối tượng sử dụng CDTP trước, sử dụng thêm rượu để ‘phê” hơn, do rượu cũng là chất an dịu như CDTP.
Kết hợp ba loại chất khác chiếm tỷ lệ thấp. Có thể ATS, CDTP, cần sa, rượu là những chất sẵn có trên thị trường, đồng thời là chất có tác dụng gây khoái cảm mạnh, vì vậy tỷ lệ kết hợp các chất này cao.
3.2 Đặc điểm lâm sàng hành vi gây hấn.
3.2.1 Mã chẩn đoán, triệu chứng rối loạn tâm thần.
Kết quả này đa số người bệnh nghiên cứu là những người bệnh đã có hậu quả nặng về tâm thần do sử dụng đa chất và cũng có thể chính vì lý do loạn thần, rối loạn tâm thần buộc người bệnh phải nhập viện điều trị. Kết quả phản ánh nhóm người bệnh nghiên cứu của chúng tôi gồm những người bệnh nặng.
Kết quả này cho thấy hậu quả nặng về tâm thần liên quan sử dụng chất của nhóm người bệnh nghiên cứu, ảo giác, hoang tưởng có thể gây rối loạn cảm xúc, hành vi nặng kèm theo. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với một số tác giả, như: Tomlinson MF, Brown M, Hoaken PN; Vanderplasschen W, De Maeyer J, Colpaert K; Yudko E, Blanchard DC, Henrie JA, Blanchard RJ.20,23
Kết quả này phản ánh nhóm người bệnh nghiên cứu là những người bệnh có hậu quả tâm thần liên quan sử dụng chất nặng. Chính những rối loạn cảm xúc, hành vi này có thể gián tiếp gây lên hành vi gây hấn ở người bệnh. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với đa số các tác giả, như: Mustafa A; Tomlinson MF, Brown M, Hoaken PN; Yudko E, Blanchard DC, Henrie JA, Blanchard RJ.7,20,24
Kết quả này phản ánh hậu quả của sử dụng đa chất. Phù hợp đã số các tác giả, như: Mustafa A; Tomlinson MF, Brown M, Hoaken PN; Yudko E, Blanchard DC, Henrie JA, Blanchard RJ.7,20,24
3.2.2 Đặc điểm lâm sàng hành vi gây hấn.
+ Loại gây hấn, triệu chứng gây hấn.
Tỷ lệ hành vi gây hấn ở nhóm người bệnh sử dụng đa chất cao, có thể do nhóm người bệnh gồm những người bệnh loạn thần, rối loạn tâm thần và hành vi liên quan sử dụng chất là chủ yếu. Chính những triệu chứng này gián tiếp gây hành vi gây hấn hoặc chính hành vi gây hấn là một triệu chứng trực tiếp do sử dụng đa chất gây lên. Ở tuần thứ 2, thứ 3 tỷ lệ hành vi gây hấn giảm có thể do ngừng sử dụng đa chất và do điều trị. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cơ bản phù hợp với đa số các tác giả, như: Fosse R, Olsen BM, Bjørkly S; Mustafa A; Vanderplasschen W, De Maeyer J, Colpaert, Yudko E, Blanchard DC, Henrie JA, Blanchard RJ,5,7,23,24 nhưng có tỷ lệ cao hơn có thể do nhóm người bệnh nghiên cứu của chúng tôi gồm đa số người bệnh loạn thần, rối loạn tâm thần điều trị nội trú.
Chủ yếu hành vi gây hấn ở người bệnh sử dụng đa chất là gây hấn bằng lời nói, gây hấn với người khác, có một tỷ lệ đáng kể hành vi gây hấn với đồ vật, hành vi gây hấn bản thân rất thấp và chỉ có trong tuần đầu điều tri. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với đa số các tác giả, các tác giả cho rằng giai đoạn tác dụng dược lý do chất, cũng có hành vi gây hấn cao: Görgülü T; Mustafa A; Racz SJ, Saha S, Trent M và cộng sự.2,7,22
Hành vi gây hấn là biểu hiện tái diễn có thể là triệu chứng trực tiếp do sử dụng đa chất, có thể gián tiếp do triệu chứng rối loạn tâm thần khác dó sử dụng đa chất gây lên. Các lần hành vi gây hấn này có thể gây hậu quả cho người xung quanh và người bệnh, vì vậy cần theo dõi sát sao, điều trị tích cực tránh hậu quả xảy ra.
Biểu hiện các triệu chứng hành vi gây hấn với mỗi loại hành vi gây hấn ở mức độ nhẹ, vừa, hiếm gặp các triệu chứng nặng của hành vi gây hấn, điều này có thể người bệnh đã ngừng sử dụng đa chất, được điều trị phù hợp và trong môi trường quản lý sát sao, có sự ngăn chặn kịp thời của nhân viên y tế. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với một số tác giả: Görgülü T; Mustafa A; Racz SJ, Saha S, Trent M và cộng sự.2,7,22
Kết quả này cho thấy nếu ngừng sử dụng đa chất và điều trị phù hợp các triệu chứng hành vi gây hấn thuyên giảm nhanh, có thể do tác dụng trực tiếp hóa dược trên hành vi gây hấn hoặc giảm các triệu chứng loạn thần, rối loạn tâm thần gián tiếp giảm hành vi gây hấn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với đa số tác giả, như: Stephenson M, Aggen SH, Polak K, Svikis DS, Kendler KS, Edwards AC; Vanderplasschen W, De Maeyer J, Colpaert K; Yudko E, Blanchard DC, Henrie JA, Blanchard RJ.1,23,24
Qua kết quả chúng ta có thể bước đầu kết luận mức độ hành vi gây hấn ở người bệnh rối loạn tâm thần liên quan sử dụng đa chất khá cao và hành vi gây hấn này có thể gây hậu quả cho người khác, bản thân người bệnh và tài sản. Kết quả này phù hợp với đánh giá trên lâm sàng và phù hợp với một số tác giả, như: Görgülü T; Lundholm L, Frisell T, Lichtenstein P, Långström N; Racz SJ, Saha S, Trent M.2,6,22
Mức độ hành vi gây hấn thuyên giảm nhanh có thể do người bệnh ngừng sử dụng đa chất và được điều trị. Như vậy, hành vi gây hấn ở người bệnh rối loạn tâm thần liên quan đến sử dụng đa chất có thể điều trị hiệu quả khi ngừng sử dụng đa chất và điều trị phù hợp. Kết quả này phfu hợp với đa số các tác giả, như: Mustafa A; Görgülü T; Lundholm L, Frisell T, Lichtenstein P, Långström N; Racz SJ, Saha S, Trent M.2,6,7,22
Sự thuyên giảm tỷ lệ hành vi gây hấn có thể do người bệnh sử dụng đa chất và được điều trị hóa dược, tâm lý phù hợp. Chúng ta có thể bước đầu kết luận hành vi gây hấn ở người bệnh rối loạn tâm thần liên quan đến sử dụng đa chất có thể nhanh thuyên giảm sau ngừng sử dụng đa chất và điều trị phù hợp. Kết quả này phù hợp với đa số các tác giả, như: Mustafa A; Görgülü T; Lundholm L, Frisell T, Lichtenstein P, Långström N; Racz SJ, Saha S, Trent M.2,6,7,22
3.3 Một số yếu tố liên quan đến hành vi gây hấn.
Tỷ lệ hành vi gây hấn không có sự khác biệt theo nhóm tuổi, có thể do tỷ lệ các loại hành vi gây hấn đều cao nên không có sự khác biệt. Mặt khác, có thể hành vi gây hấn ở người bệnh sử dụng đa chất phụ thuộc chính vào loại chất sử dụng kết hợp, liều lượng sử dụng, nên tỷ lệ các loại hành vi gây hấn không có sự khác biệt có ý nghĩa theo nhóm tuổi. Kết quả này phù hợp với một số tác giả: Görgülü T; Lundholm L, Frisell T, Lichtenstein P, Långström N; Steele JL và Peralta RL.2,6,19
Tỷ lệ loại hành vi gây hấn không có sự khác biệt, có thể do tỷ lệ các loại hành vi gây hấn đều cao nên không có sự khác biệt. Mặt khác, có thể hành vi gây hấn ở người bệnh sử dụng đa chất phụ thuộc chính vào loại chất sử dụng kết hợp, liều lượng sử dụng, nên tỷ lệ các loại hành vi gây hấn không có sự khác biệt có ý nghĩa theo nhóm tuổi. Kết quả này phù hợp với một số tác giả: Görgülü T; Lundholm L, Frisell T, Lichtenstein P, Långström N; Steele JL và Peralta RL.2,6,19
Tỷ lệ các triệu chứng khác ở các giai đoạn điều trị không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm tuổi bắt đầu sử dụng đa chất, trên 30 tuổi và từ 30 tuổi trở xuống, với p > 0,05. Tỷ lệ hành vi gây hấn với bản thân ở nhóm bắt đầu sử dụng đa chất trên 30 tuổi cao, có thể ở nhóm này chủ yếu là các người bệnh trước đã sử dụng chất gây nghiện truyền thống, sau sử dụng kết hợp chất khác, những người này có thể đã có biến đổi nhân cách và hậu quả nhiều mặt tâm thần, gia đình, xã hội. Kết nghiên cứu của chúng tôi khác biệt một số tác giả, như: Fosse R, Olsen BM, Bjørkly S; Stephenson M, Aggen SH, Polak K, Svikis DS, Kendler KS, Edwards AC; Racz SJ, Saha S, Trent M,1,5,22 có thể do nhóm đối tượng nghiên cứu của chúng tôi khác đối tượng nghiên của của tác giả khác, do đặc điểm, môi trường xã hội của nhóm sử dụng đa chất khác.
Tỷ lệ hành vi gây hấn bằng lời nói nhóm chấn đoán loạn thần 97,3% cao hơn nhóm chẩn đoán khác 84,3%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p = 0,047. có thể do các triệu chứng hoang tưởng, ảo giác thuyên giảm chậm hơn các triệu chứng rối loạn cảm xúc, hành vi khác, vì vậy có thể gián tiếp gây hành vi gây hấn, nên nhóm loạn thần có tỷ lệ cao hơn.
Tỷ lệ các loại hành vi gây hấn ở các giai đoạn điều trị không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm thời gian sử dung đa chất trên 5 năm và từ 5 năm trở xuống, có thể do hành vi gây hấn phụ thuộc chủ yếu vào loại chất sử dụng kết hợp, liều sử dụng và triệu chứng rối loạn tâm thần khác đi kèm, chứ ít phụ thuộc vào thời gian sử dụng. Cũng có thể do mẫu nghiên cứu của chúng tôi gồm các những người bệnh đều rối loạn tâm thần nặng vì vậy không có sự khác biệt.
Tỷ lệ các loại hành vi gây hấn ở các giai đoạn điều trị không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm sử dụng kết hợp từ 3 chất trở lên và nhóm sử dụng kết hợp 2 chất, có thể do tỷ lệ hành vi gây hấn cao và nhóm người bệnh trong nghiên cứu này có tỷ lệ rối loạn tâm thần cao, vì vậy chỉ đơn thuần tỷ lệ hành vi gây hấn chung sẽ không có sự khác biệt. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi khác biệt so với một số tác giả, như: Fosse R, Olsen BM, Bjørkly S; Lundholm L, Frisell T, Lichtenstein P, Långström N. 5,6
Mức độ hành vi gây hấn liên quan tuyến tính với chấn đoán có thể ở nhóm chẩn đoán nghiện mức độ rối loạn tâm thần ít hơn ở nhóm chẩn đoán có loạn thần và rối loạn hành vi. Những triệu chứng loạn thần, rối loạn hành vi có thể gián tiếp làm tăng mức độ gây hấn. Mức độ hành vi gây hấn liên quan đồng biến với số chất sử dụng kết hợp, có thể do sử dụng nhiều chất gây rối loạn tâm thần nhiều hơn, cũng có thể sử dụng nhiều chất tác dụng dược lý khác nhau nên trạng thái tâm thần người bệnh dao động có thể làm tăng mức độ gây hấn. Mức độ hành vi gây hấn liên quan đồng biến với triệu chứng hoang tưởng, có do hoang tưởng là triệu chứng loạn thần nặng, có thể gây tăng mức độ hành vi gây hấn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với một số tác giả: Fosse R, Olsen BM, Bjørkly S; Lundholm L, Frisell T, Lichtenstein P, Långström N; Racz SJ, Saha S, Trent M và cộng sự; Tomlinson MF, Brown M, Hoaken PN.5,6,20,22
Mức độ hành vi gây hấn liên quan tuyến tính với nhóm chấn đoán, hoang tưởng, ảo giác, số chất sử dụng kết hợp: có thể ở nhóm chẩn đoán nghiện mức độ rối loạn tâm thần ít hơn ở nhóm chẩn đoán có loạn thần và rối loạn hành vi. Những triệu chứng loạn thần, rối loạn hành vi có thể gián tiếp làm tăng mức độ gây hấn, hoang tưởng, ảo giác là triệu chứng rối loạn tâm thần nặng có thể gián tiếp tăng mức độ gây hấn, số chất kết hợp nhiều tác động dược lý khác nhau gây hận quả rối loạn tâm thần nặng hơn, trạng thái tâm thần dao động có thẻ gây tăng mức độ hành vi gây hấn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với một số tác giả: Fosse R, Olsen BM, Bjørkly S; Lundholm L, Frisell T, Lichtenstein P, Långström N; Racz SJ, Saha S, Trent M và cộng sự; Tomlinson MF, Brown M, Hoaken PN.5,6,20,22
Có sự liên quan tuyến tính đồng biến có ý nghĩa thống kê từ mạnh đến yếu giữa mức độ hành vi gây hấn (điểm thang AOS) với các biến độc lập, theo thứ tự hệ số hồi quy chuẩn ꞵ: số chất sử dụng kết hợp 0,593 > nhóm có sử dụng cần sa 0,532 > tuổi bắt đầu sử dụng đa chất 0,457 > nhóm sử dụng có Ketamin 0,360. Ở giai đoạn 1 đến 2 tuần điều trị, có sự liên quan tuyến tính nghịch biến có ý nghĩa thống kê giữa mức độ hành vi gây hấn (điểm thang AOS) với nhóm tuổi bắt đầu sử dụng đa chất, với hệ số hồi quy chuẩn ꞵ = – 0,393. có thể do nhóm tuổi bắt đầu sử dụng chất càng trẻ càng gấy biến đổi nhân cách và gây rối loạn tâm thần nặng hơn vì vậy có thể làm tăng mức độ hành vi gây hấn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với một số tác giả: Fosse R, Olsen BM, Bjørkly S; Lundholm L, Frisell T, Lichtenstein P, Långström N; Racz SJ, Saha S, Trent M và cộng sự; Tomlinson MF, Brown M, Hoaken PN.5,6,20,22
Tuần điều trị thứ ba các triệu chứng loạn thần, rối loạn tâm thần cơ bản đã ổn, hành vi gây hấn giai đoạn này chủ yếu có mục đích đòi hỏi, yêu sách. Nhóm sử dụng ít chất kết hợp chủ yếu là các người bệnh trẻ hơn, thường có những yêu sách nhu cầu nhiều dẫn đến mức độ hành vi gây hấn ở nhóm sử dụng kết hợp ít chất tăng hơn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với một số tác giả: Fosse R, Olsen BM, Bjørkly S; Lundholm L, Frisell T, Lichtenstein P, Långström N; Racz SJ, Saha S, Trent M và cộng sự; Tomlinson MF, Brown M, Hoaken PN.5,6,20,22
KẾT LUẬN
Nghiên cứu 88 người bệnh sử dụng đa chất, rối loạn tâm thần điều trị nội trú tại Bệnh viện Tâm thần Hà Nội, chúng tôi rút ra kết luận:
Hành vi gây hấn là triệu chứng thường gặp: tuần thứ nhất điều trị có 100,0% người bệnh có hành vi gây hấn, trong đó gây hấn bằng lời nói cao nhất 100,0%, gây hấn với người khác 93,2%, gây hấn với đồ vật 70,5%, gây hấn với bản thân 4,5%. Hành vi gây hấn giảm rõ rệt theo thời gian điều trị: tuần thứ hai 89,8%, tuần thứ ba 41,0% ((p < 0,0001). Số lần gây hấn cả đợt điều trị 5,67 ± 2,169 lần, tuần thứ nhất 3,40 ± 1,326 lần, tuần thứ ba giảm còn 0,57 ± 0,719 lần (p < 0,0001).
Thang AOS đánh giá mức độ hành vi gây hấn cả đợt cao 12,75 ± 2,432 điểm, tuần đầu 12,61 ± 2,684 điểm giảm rõ rệt ở tuần thứ ba còn ở mức thấp 1,00 ± 1,874 điểm (p < 0,0001).
Mức độ hành vi gây hấn liên quan tuyến tính đồng biến với chẩn đoán, số chất sử dụng kết hợp, nhóm có sử dụng Ketamin, nhóm có hoang tưởng với mức độ tương quan từ mạnh đến yếu tương ứng (ꞵ: 0,576 > 0,488 > 0,424 > 0,419), mức độ hành vi gây hấn cao ở nhóm chẩn đoán F19.5, F19.8, ở nhóm sử dụng kết hợp nhiều chất, có sử dụng Ketamin, có hoang tưởng. Tuần đầu điều trị, mức độ hành vi gây hấn liên quan nghịch biến với nhóm tuổi bắt đầu sử dụng đa chất (ꞵ: – 0,407), nhóm tuổi bắt đầu sử dụng đa chất càng trẻ, mức độ hành vi gây hấn càng cao. Tuần thứ hai điều trị, mức độ hành vi gây hấn liên quan tuyến tính đồng biến với nhóm có sử dụng cần sa (ꞵ:0,532).
Tài liệu tham khảo
1. Stephenson M, Aggen SH, Polak K, Svikis DS, Kendler KS, Edwards AC. Patterns and Correlates of Polysubstance Use Among Individuals With Severe Alcohol Use Disorder. Alcohol and Alcoholism. 2022;57(5):622-629.
2. Görgülü T. Suicide attempt among substance users: Do aggression and polysubstance use have an interaction effect on suicide attempt. KLINIK PSIKIYATRI DERGISI-TURKISH JOURNAL OF CLINICAL PSYCHIATRY. 2020;23:430-437. doi:10.5505/kpd.2020.56887
3. Tanibuchi Y, Matsumoto T, Funada D, Shimane T. The influence of tightening regulations on patients with new psychoactive substance‐related disorders in Japan. Neuropsychopharmacology Reports. 2018;38(4):189-196. doi:10.1002/npr2.12035
4. Nguyễn Văn Tuấn, Vũ Ngọc Úy, Vũ Hương Giang. Cơ cấu rối loạn tâm thần do sử dụng chất gây nghiện điều trị nội trú tại Bệnh viện Tâm thần Hà Nội, Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở Bệnh viên Tâm thần Hà Nội 2019. 2019:17-28.
5. Fosse R, Olsen BM, Bjørkly S. Violence in acute psychiatric patients: a cumulative increased risk with polysubstance abuse? International Journal of Forensic Mental Health. 2013;12(3):165-171.
6. Lundholm L, Frisell T, Lichtenstein P, Långström N. Anabolic androgenic steroids and violent offending: confounding by polysubstance abuse among 10 365 general population men. Addiction. 2015;110(1):100-108.
7. Mustafa A. Impact of Poly-drug and Mono-drug on Aggression and Emotional Dysregulation among Substance Users. Journal of Pakistan Psychiatric Society. 2019;16(4)
8. A. Botéro, P. Canoui, B. Granger. Toxicomanies. Psychiatrie De l’Adulte. Edition MALOINE; 1992:230-243.
9. E.Hales R, C.Yudofsky S, Roberts LW. Substance-Related and Addictive Disorders. The Americain Psychiatric Publishing Textbook of Psychiatry. Edition Bristish Library; 2014:735 – 814.
10. Kaplan HI, Sadock’s BJ. Substance-Related Disorders, Psychotherapies, Biological Therapies. Concise Texbook of clinican psychiatry. Edition Tenth; 2007:381-464, 924-971, 976 -1124.
11. G. Darcourt, M M, D. Pringuey, T. Braccini PR, P. Bonhomme. Drogue: intoxication aigue et chronique. syndrome de sevrage, complications psychiatriques, neurologiques aigues et chroniques imputables à la consommation de drogue illicites. Internat. Edition Heures; 1998:131-146.
12. Kaplan HI, Sadock’s BJ. Lạm dụng chất ở trẻ vị thành niên. Tóm lược Tâm thần học trẻ em và thanh thiếu niên, Nguyến Kim Việt và cs trích và dịch theo Kaplan và Sadock’s Consie Texboook of Child and Aldolesscent psychiatry, 10/E, 2009, Lippincott William & Wilkns/Wolters Kluwer Health. NXB Y Học; 2013:311 – 320.
13. Organization WH. Cannabis-induced psychotic disorder. Synthetic cannabinoid-induced psychotic disorder. Internationnal classification of disease-11. Department of Mental Health and Substance Use; 2021:423-465.
14. Abouchedid R, Ho JH, Hudson S, et al. Acute Toxicity Associated with Use of 5F-Derivations of Synthetic Cannabinoid Receptor Agonists with Analytical Confirmation. J Med Toxicol. Dec 2016;12(4):396-401. doi:10.1007/s13181-016-0571-7
15. Arcan C, Kubik MY, Fulkerson JA, Hannan PJ, Story M. Substance use and dietary practices among students attending alternative high schools: results from a pilot study. BMC public health. 2011;11:1-9. doi:10.1186/1471-2458-11-263
16. Association AP. Adjustment Disorders. Diagnostic and Statistial Manual of Mental Disorders Fithh Edition Revision: DSM-5-TR. Americain Psychitric Publishing; 2022:319-322.
17. Lê Anh Tuấn, Lý Trần Tình. Lạm dụng rượu, nghiện rượu ở Hà Nội. NXB Hà Nội; 2010.
18. Compton WM, Valentino RJ, DuPont RL. Polysubstance use in the US opioid crisis. Molecular Psychiatry. 2021;26(1):41-50. doi:10.1038/s41380-020-00949-3
19. Steele JL, Peralta RL. Are polydrug users more physically and verbally aggressive? An assessment of aggression among mono-versus polydrug users in a university sample. Journal of interpersonal violence. 2020;35(21-22):4444-4467.
20. Tomlinson MF, Brown M, Hoaken PN. Recreational drug use and human aggressive behavior: A comprehensive review since 2003. Aggression and violent behavior. 2016;27:9-29.
21. Yudofsky SC, Silver JM, Jackson W, Endicott J, Williams D. The Overt Aggression Scale for the objective rating of verbal and physical aggression. The American journal of psychiatry. 1986;143(1):35-39. doi:10.1176/ajp.143.1.35
22. Racz SJ, Saha S, Trent M, et al. Polysubstance use among minority adolescent males incarcerated for serious offenses. Springer; 2016:205-220.
23. Vanderplasschen W, De Maeyer J, Colpaert K. Poly substance use and mental health among individuals presenting for substance abuse treatment (Polymeh): Discussion and conclusions.
24. Yudko E, Blanchard DC, Henrie JA, Blanchard RJ. Emerging themes in preclinical research on alcohol and aggression. Recent Developments in Alcoholism: Volume 13: Alcohol and Violence-Epidemiology Neurobiology Psychology Family Issues. 1997:123-138.
25. Nguyễn KD. Đặc điểm lâm sàng rối loạn hành vi ở bệnh nhân rối loạn tâm thần do sử dụng các chất dạng amphetamine. Luận văn thạc sĩ y học. TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI; 2020.
26. Nguyễn ĐX, Nguyễn VT, Phạm TL, Nguyễn VT. Đặc điểm lâm sàng hành vi gây hấn ở người sử dụng chất dạng Amphetamin điều trị nội trú tại Bệnh viện Tâm thần Hà Nội/Nguyễn Đăng Xuất. Tạp chí Nghiên cứu Y học. 2020;125(1)doi:https://doi.org/10.52852/tcncyh.v125i1.1557
27. Tổ chức y tế thế giới. Tâm thấn phân liệt, các rối loạn hoang tưởng và rối loạn loại phân liệt. Phân loại các rối loạn tâm thần và hành vi Tiêu chuẩn chẩn đoán dành cho nghiên cứu – Geneva, 1993 Biên dịch: Trần Viết Nghị và cs. NXB Công ty In Giao thông; 2005:84-96.